Hi quý vị. , tôi xin chia sẽ về chủ đề [Wiki] FC BATE Borisov là gì? Chi tiết về FC BATE Borisov update 2021 bằng nội dung [Wiki] FC BATE Borisov là gì? Chi tiết về FC BATE Borisov update 2021
Đa phần nguồn đều đc lấy thông tin từ những nguồn trang web nổi tiếng khác nên chắc chắn có vài phần khó hiểu.
Mong mỗi cá nhân thông cảm, xin nhận góp ý và gạch đá dưới comment
Quý độc giả vui lòng đọc nội dung này trong phòng riêng tư để có hiệu quả tốt nhất
Tránh xa toàn bộ những thiết bị gây xao nhoãng trong công việc đọc bài
Bookmark lại bài viết vì mình sẽ update hàng tháng
Logo | |
Họ và tên | Câu lạc bộ bóng đá BATE Borisov |
---|---|
Thành lập | Năm 1973 |
Sân | Đấu trường Borisov |
Dung tích | 13.126 |
Chủ tịch điều hành | Anatoli Kapski |
Người quản lý | Alyaksandr Yermakovich |
Giải đấu | Giải bóng đá ngoại hạng Belarus |
2019 | 2 |
FC BATE Borisov (Người Belarus: арысаў, IPA: [baˈtɛ]; Tiếng Nga: орисов, FK BATE Borisov) là một câu lạc bộ bóng đá ở thành phố Borisov, Belarus. CLB này đang thi đấu tại giải Ngoại hạng Belarus và đang là đương kim vô địch của giải đấu. BATE Borisov là đội Belarus duy nhất vượt qua vòng bảng của UEFA Champions League, và họ đã nhiều lần xuất hiện trên đấu trường hàng đầu châu lục trong các mùa giải 2008-09, 2011-12, 2012-13 và bóng đá. 2014-15. Ngoài ra, đội còn thi đấu tại UEFA Europa League mùa giải 2009-10 và 2010-11. Sân nhà của đội là Borisov Arena với sức chứa 13.126 chỗ ngồi và chính thức đi vào hoạt động năm 2014.
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
BATE là từ viết tắt của TẨYorisov Công trình của MỘTô tô và HÀNG TRIỆUngười cắt cỏ Ethiết bị giảng dạy. Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1973 và tái thành lập vào năm 1996. Kể từ năm 1996, BATE đã 10 lần vô địch giải Ngoại hạng Belarus và nhiều lần tranh tài tại UEFA Champion League, giải đấu danh giá nhất. ở cấp câu lạc bộ châu Âu.
Năm 2001, BATE lần đầu tiên tham dự UEFA Cup và cũng là lần đầu tiên vượt qua vòng loại. Năm 2008, BATE đánh bại Valur, Anderlecht và Levski Sofia để trở thành đội Belarus đầu tiên vượt qua vòng bảng UEFA Champions League.[1] Trong mùa giải đó, BATE nằm ở bảng H cùng với những gã khổng lồ của bóng đá châu Âu là Juventus, Real Madrid và Zenit St Petersburg. BATE kết thúc vòng bảng ở vị trí cuối bảng với vỏn vẹn 3 điểm khi có được 3 trận hòa, 1 trước Zenit tại Nga và hòa Juventus ở cả 2 lượt trận.[2] Một năm sau, đội chỉ thi đấu ở Europa League mùa giải 2009-10. Ở vòng bảng, đội nằm cùng bảng với Benfica của Bồ Đào Nha, Everton của Anh và CLB AEK Athens của Hy Lạp, nhưng đều bị loại ở vòng bảng. Trong một cuộc thi tương tự vào mùa giải 2010–11, câu lạc bộ được xếp vào bảng E cùng với AZ Alkmaar của Hà Lan và hai đội khác từ các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ là Dynamo Kiev của Ukraine và Cảnh sát trưởng Tiraspol từ Moldova. BATE đã lọt vào Vòng 32 nhưng bị đánh bại bởi đội bóng lớn của Pháp Paris Saint-Germain.
BATE là câu lạc bộ có nhiều cầu thủ đáng chú ý đã trưởng thành và thi đấu cho nhiều câu lạc bộ lớn của châu Âu như Alexander Hleb (từng khoác áo Stuttgart, Arsenal, Barcelona, Birmingham City) và hiện là cầu nối. cầu thủ này sẽ trở lại chơi tại BATE Borisov; Hay như Vitali Kutuzov (từng chơi cho Milan, Sporting Lisbon, Avellino, Sampdoria, Parma, Pisa, và Bari) và Yuri Zhevnov (từng chơi cho FC Moscow và Zenit St Petersburg). Sau khi bắt đầu sự nghiệp ở BATE, cả 3 cầu thủ nổi tiếng này đều đã chơi cho các câu lạc bộ lớn khác và là thành viên của đội tuyển quốc gia Belarus.[3]
Vào ngày 26 tháng 8 năm 2014, BATE đã chơi trận play-off để giành quyền tham dự vòng bảng UEFA Champions League, và trước Slovan Bratislava, câu lạc bộ đã giành chiến thắng 3–0 và 4–1 để giành quyền tham dự Champions League thứ tư của họ.
Sự hình thành[sửa | sửa mã nguồn]
- Tính đến tháng 8 năm 2014
Lưu ý: Cờ biểu thị đội tuyển quốc gia được quy định trong các quy định về tính đủ điều kiện của FIFA. Người chơi có thể mang nhiều hơn một quốc tịch bên ngoài FIFA.
Chức vụ[sửa | sửa mã nguồn]
-
Giải bóng đá ngoại hạng Belarus
- Vô địch (15): 1999, 2002, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018
- Hạng nhì (4): 1998, 2000, 2003, 2004
- Vị trí thứ 3 (1): 2001
-
Giải bóng đá Cúp Belarus
- Vô địch (2): 2006, 2010
- Á quân (3): 2002, 2005, 2007
-
Siêu cúp bóng đá Belarus
- Vô địch (7): 2010, 2011, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017
- Á quân (3): 2012, 2018, 2019
- Giải bóng đá hạng hai Belarus
Lịch sử cạnh tranh trong nước[sửa | sửa mã nguồn]
Mùa | giải đấu cấp | Chức vụ | Trận đánh | W | DỄ | CHÀO HÀNG | Ghi bàn | Điểm | Cúp quốc gia | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1996 | 3 | đầu tiên | 28 | 25 | 2 | đầu tiên | 79–10 | 77 | ||
1997 | 2 | 2 | 30 | 25 | 3 | 2 | 92–15 | 78 | Vòng 32 | |
1998 | đầu tiên | 2 | 28 | 18 | 4 | 6 | 50–25 | 58 | Tứ kết | |
1999 | đầu tiên | đầu tiên | 30 | 24 | 5 | đầu tiên | 80–22 | 77 | Bán kết | |
2000 | đầu tiên | 2 | 30 | 20 | 4 | 6 | 68–26 | 64 | Vòng 16 | |
2001 | đầu tiên | 3 | 26 | 16 | 3 | 7 | 54–31 | 51 | Tứ kết | |
2002 | đầu tiên | đầu tiên | 27đầu tiên | 19 | 2 | 6 | 52–20 | 59 | á quân | |
2003 | đầu tiên | 2 | 30 | 20 | 6 | 4 | 70–21 | 66 | Tứ kết | |
2004 | đầu tiên | 2 | 30 | 22 | 4 | 4 | 27–54 | 70 | Bán kết | |
2005 | đầu tiên | 5 | 26 | thứ mười hai | 11 | 3 | 42–27 | 47 | á quân | |
2006 | đầu tiên | đầu tiên | 26 | 16 | 6 | 4 | 47–27 | 54 | Quán quân | |
2007 | đầu tiên | đầu tiên | 26 | 18 | 2 | 6 | 50–25 | 56 | á quân | |
2008 | đầu tiên | đầu tiên | 30 | 19 | mười | đầu tiên | 54–20 | 67 | Bán kết | |
2009 | đầu tiên | đầu tiên | 26 | 19 | 5 | 2 | 55–16 | 62 | Bán kết | |
2010 | đầu tiên | đầu tiên | 33 | 21 | 9 | 3 | 64–18 | 72 | Quán quân | |
2011 | đầu tiên | đầu tiên | 33 | 18 | thứ mười hai | 3 | 53–20 | 66 | Vòng 16 | |
2012 | đầu tiên | đầu tiên | 30 | 21 | 5 | 4 | 51–16 | 68 | Vòng 16 | |
2013 | đầu tiên | đầu tiên | 32 | 21 | 4 | 7 | 61–25 | 67 | Vòng 16 | |
2014 | đầu tiên | Tứ kết |
- đầu tiên Trong đó có trận play-off (thắng 1–0) với câu lạc bộ Neman Grodno, nơi cả hai đội kết thúc với cùng tỷ số.
Người chơi đáng chú ý[sửa | sửa mã nguồn]
Huấn luyện viên[sửa | sửa mã nguồn]
-
Yuri Puntus (1 tháng 3 năm 1996 – 30 tháng 11 năm 2004)
-
Igor Kriushenko (1 tháng 1 năm 2005 – 12 tháng 11 năm 2007)
-
Viktor Goncharenko (13 tháng 11 năm 2007 – 12 tháng 10 năm 2013)
-
Alyaksandr Yermakovich (ngày 12 tháng 10 năm 2013 -)
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
-
^
“BATE làm nên lịch sử cho Belarus”. UEFA. 27 tháng 8, 2008. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2008.
- ^ [1]
- ^ “БАТЭ: перамогі, барысаўская каманда даказала, о перамагаюць не ошы”. Báo Belarus. аша а. Ngày 1 tháng 1 năm 2009. tr. đầu tiên. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2013.
liện kết ngoại[sửa | sửa mã nguồn]
Nguồn tổng hợp